Huyền bí Thần Hạc giúp Vua Gia Long tìm vùng đất quý xây thành

Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh lên ngôi vua lập ra vương triều nhà Nguyễn, lấy niên hiệu là Gia Long. Nhưng trong lòng Vua vẫn không an tâm với đất Bắc Hà, bởi nơi đây có nhiều cựu thần nhà Lê.

Sau ngày đăng quang vua Gia Long bàn bạc chia đặt quan chức để cai quản 11 trấn Bắc Thành, bàn phép khoa cử thu hút nhân tài, vỗ về sĩ phu đất Bắc. Trước khi trở về triều, Vua Gia Long ghé đến Nguyên miếu ở trong thành Triệu Tường (Thanh Hóa) bái yết tiên tổ. Đồng thời, nhà vua cũng muốn rời thành Tư Phố đến một nơi mới để đặt trấn lỵ của trấn Thanh Hoá, nhưng lại chưa tìm được vùng đất ưng ý.

Tương truyền một đêm nọ, vì mải suy nghĩ đến chuyện dời thành, Vua Gia Long bồn chồn mãi không sao ngủ được. Đến canh ba khi chợt đi vào giấc ngủ, nhà vua nằm mơ, đột nhiên thấy cửa hành cung mở ra. Một người mặt mũi khôi ngô, tay dài quá gối, mình như mình hạc, vóc như vóc tiên, toàn thân áo quần trắng muốt tiến đến sụp lạy trước mặt vua tâu rằng: “Biết bệ hạ đang trăn trở tìm địa điểm dời thành Tư Phố, Thần Bạch Hạc phái tôi đến giúp bệ hạ việc này. Ngày mai khoảng giữa giờ Thìn xin bệ hạ theo tôi định đất. Đó là nơi bền vững muôn đời, loạn có thể giữ, bình có thể trị, dẫu sau này có lần đổ nát nhưng lại hoàn như Châu về Hợp Phố”.

Nhà vua toan hỏi thì người đó đã chẳng thấy đâu, chỉ thấy một ánh hào quang trắng mềm mại tựa ánh trăng ngàn uyển chuyển bay qua rèm cửa, dìu dịu mùi hương thơm kỳ lạ lan tỏa khắp phòng.

Vua Gia Long (Nguồn ảnh: nghiencuuquocte.org)

Vua giật mình tỉnh giấc mới biết là vừa nằm mơ, nhưng những chi tiết lại rất thật, vua tự hỏi: “Thần Bạch Hạc là vị Thần nào, phải chăng đây là Thần Chim Lạc mà cha ông xưa đã thờ, là Chim Tổ, loài linh điểu giang cánh bay trên trống đồng?”

Vua liền kể lại câu chuyện với các vị Đại Thần. Sau đó, Vua truyền lệnh sẵn sàng xe ngựa chờ Thần linh ứng nghiệm. Đến giữa giờ Thìn hễ có người mặc áo trắng đến lập tức phải đón vào bái kiến.

Mọi người đều chăm chú quan sát con đường dẫn đến Nguyên miếu xem có ai mặc áo trắng như lời Vua dặn. Đến giờ Thìn nhưng vẫn chưa thấy ai. Cho tới khi đúng giữa giờ Thìn thì từ trên không bất ngờ có tiếng chim vọng xuống, nhà Vua cùng mọi người ngước nhìn lên trời. Một con chim Hạc trắng to lớn khác thường cứ bay lượn trước sân nhà Vua ngự như có ý đợi chờ. Nhà Vua hiểu ra liền lên xe. Chim Hạc kêu to mấy tiếng rồi bay đi trước, nhà Vua cùng cận thần theo sau.

Đến một vùng đất mới có rất nhiều đầm nước xanh biếc, chim Hạc ngừng cánh bay hạ xuống trước xe nhà Vua rồi gật gật đầu. Nhà Vua chưa kịp mở lời thì chim Hạc đã vụt bay đi.

Nhà Vua phóng tầm mắt bao quát khắp vùng, quả là nơi sơn thuỷ hữu tình. Núi sông như đặt bày trên đồng xôi bãi mật. Phía Đông có dãy Linh Trường và dãy Trường Lệ làm án. Trái có long sơn long thuỷ, phải có hổ phục hổ chầu. Đây chính là vùng đất Vua trông đợi bấy lâu. Vui mừng khôn xiết, nhà Vua chỉ tay xuống đất dõng dạc bảo các quần thần: “Ta sẽ dựng thành ở chính nơi này. Toà thành đó sẽ gọi là thành Chim Hạc”.

Vị trí nơi đây chính là thuộc làng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, nay đã được sáp nhập vào thành phố Thanh Hóa. Bởi vậy, thành Chim Hạc sau này còn được gọi là thành Thọ Hạc.

Năm 1804, vua Gia Long hạ chiếu chỉ di dời lị sở của trấn Thanh Hoá từ làng Dương Xá, xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa đến làng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, đồng thời tiến hành xây dựng thành trấn lỵ.

Hạc thành được xây theo hình lục lăng, có hào bao quanh mặt ngoài. Thành mở 4 cửa: cửa tiền phía Nam, cửa hậu phía Bắc, cửa tả phía Đông Nam, cửa hữu phía Tây Nam. Trong thành là nơi ăn ở, trị vì của các quan đầu tỉnh.

Về kiến trúc Hạc thành, trong sách “Đồng Khánh dư địa chí” mô tả rằng: “Thành ở địa phận xã Thọ Hạc huyện Đông Sơn. Thành xây bằng gạch đá, chu vi 630 trượng (2.961m), cao 1 trượng (4,7 m), có 4 cửa, hào rộng 9 trượng 3 thước, sâu 7 thước. Các vệ Tuyên Vũ, Hùng Vũ, Nhuệ Vũ bao vòng phía trước; Quảng Vũ, Nghĩa Vũ bao vòng phía sau; Túc Vũ, Công Vũ bao vòng bên trái; Trang Vũ, Kiện Vũ, Cương Vũ bao vòng bên phải. Đồn thuỷ quân ở địa phận Nam Ngạn, hai vệ Tả, Hữu đóng ở đây. Đàn Xã tắc ở phía Tây Bắc thành. Đàn Tiên Nông ở phía Đông Nam thành. Đàn Sơn xuyên ở phía Tây Nam thành. Văn miếu ở phía Đông Bắc thành. Miếu Hội đồng ở phía Nam thành. Vũ miếu ở phía Tây thành. Học xá ở phía Nam thành. Trường thi ở phía Đông Bắc thành.

Thành Thọ Hạc được xây theo kiến trúc Vauban lục lăng, là kiểu kiến trúc phòng ngự rất lợi hại. Kiểu thành này trước đây đã được áp dụng khi xây thành Diên Khánh (ở Khánh Hòa). Danh tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu hai lần đem binh vây đánh Diên Khánh nhưng phải rút lui, thiệt hại nhiều nhưng không sao chiếm được.

Hạc thành còn mang hơi hướng của thành Gia Định ở Sài Gòn, ngôi thành được xây dựng vào năm 1790 theo kiến trúc hỗn hợp Đông-Tây. Thành đóng vai trò rất quan trọng về mặt chính trị, quân sự, địa lý của vùng Gia Định trong một khoảng thời gian dài. Sau khi được xây dựng, quân Tây Sơn đã không cố gắng để chiếm thành một lần nào nữa, giúp cho Nguyễn Ánh có được một lợi thế nhất định.

Về sau này xã Thọ Hạc được sáp nhập vào thị xã Thanh Hóa. Vùng đất này phát tích nhiều đế vương cũng như thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa nổi tiếng trong lịch sử như Bà Triệu, Dương Đình Nghệ, Lê Đại Hành, Lê Lợi, Nguyễn Ánh. Người Việt có câu “đất lành chim đậu”, câu chuyện chim Hạc chỉ đường cho Vua Gia Long cũng cho thấy Thanh Hóa đúng là vùng đất “địa linh sinh nhân kiệt”.

Dù con người thời nay có tin hay không vào những truyền thuyết về Thần, hoài nghi hay cười nhạo về sự an bài và giúp đỡ của Thần đối với con người, với các vị Vua hay các anh hùng, nhưng những điều đó luôn tồn tại suốt hàng ngàn năm qua.

Tựa như giọt nước nhỏ bé luôn tin rằng có biển, mới có một ngày nó được hòa mình vào đại dương bao la. Nếu không tin vào điều ấy, chẳng phải giọt nước kia chỉ là đá sỏi vô tri không nơi nào chứa đựng, không nguồn cội để quay về.

Thanh Tâm