Xét Sử ký của Đỗ Thiện chép thì hai Vương là hai anh em. Thời Nam Tấn Vương nhà Ngô đi đánh giặc Lý Huy ở Long Châu, đóng quân ở cửa Phù Lan (sông Lục Đầu), đêm ngủ mộng thấy hai người y quan kỳ vĩ, diện mạo khôi ngô, đến ra mắt nhà vua và thưa rằng:
- “Bọn nghịch tặc hoành hành đã lâu lắm, chúng tôi xin tòng quân trợ chiến”.
Vua lấy làm lạ, hỏi rằng:
- “Bọn khanh là người nào? Xưa nay chưa hề biết mặt; nếu đã có lòng thông cảm thì nên cho biết tính danh?”.
Hai người đều sụp xuống lạy, thưa rằng:
- “Bọn thần là anh em, vốn là người Phù Lan, nguyên họ Trương, anh tên là Hống, em tên là Hát, đều làm tướng của Việt Vương. Việt Vương bị Lý Nam Đế đánh bại, Nam Đế đem lễ vật đến rước bọn thần có ý muốn cho làm quan. Bọn thần thưa lại rằng: “Tôi trung chẳng thờ hai vua, gái trinh chẳng đổi hai chồng, huống hồ ngươi là người bội nghĩa mà còn muốn khuất cái tiết bất di dịch này ư?”. Sau đó, mới trốn vào núi Phù Long; Nam Đế nhiều lần cho người đến truy nã đều không thành, mới treo ngàn vàng cầu người bắt. Bọn thần không còn đường tiến thoái, nên đều uống thuốc độc mà qua đời”.
Thượng đế thương bọn thần vô tội chết chẳng phải mệnh, sắc bỏ chức Than Hà Long Quân Phó Sứ, tuần hai sông Vũ Bình và Lạng Giang đến tận trên nguồn, hiệu là Thần Giang Đô Phó Sứ. Trước kia, Tiên Chúa (Ngô Quyền) trong chiến dịch Bạch Đằng, bọn thần đã hiệu lực trợ thuận. Vua tỉnh dậy, bèn sai người đem cỗ rượu đến điện tế, khấn rằng:
- “Quả có anh linh, hãy phù trợ chiến dịch này, nếu được thằng lợi, tức thì dựng miếu và phong tước, hương hỏa đời đời”.
Vua mới tiến quân vây núi Côn Lôn, giặc ỷ thế hiểm trở, không ai có thể vịn trèo mà lên được.
Đóng đồn lâu quá, quân sĩ đều có ý trở tâm. Đêm ấy, vua mộng thấy hai Vương đốc binh, bộ ngũ liên thuộc đều có mặt mày như quỷ thần cả, hàng ngũ rất nghiêm, bộ lạc chỉnh tề hội tại cửa Phù Lan. Binh Trương Hống đóng từ sông Vũ Bình đến sông Như Nguyệt, tiến đến đầu nguồn sông Phú Lương; binh Trương Hát đi từ men sông Lạng Giang vào sông Nam Bình (tức sông Thương). Vua tỉnh dậy bảo với tả hữu, quả nhiên trận ấy được toàn thắng. Bình xong giặc Tây Long, vua sai Sứ chia chỗ lập đền thờ, đều phong làm Phúc Thần một phương, chiếu phong anh là Đại Đương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, lập đền thờ ở cửa sông Như Nguyệt. Còn phong em là Tiểu Đương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, lập đền thờ ở cửa sông Nam Bình.
Thời vua Nhân Tông là Lý, binh Tống nam xâm kéo đến biên cảnh; vua sai Thái úy Lý Thường Kiệt dựa bờ sông đóng cừ để cố thủ.
Một đêm kia, quân sĩ nghe trong đền có tiếng ngâm to rằng:
“Sông núi nhà Nam Nam đế ở
Phân minh trời định tại thiên thư.
Cớ sao nghịch lỗ sang xâm phạm?
Bọn chúng rồi đây sẽ bại hư.”
Quả nhiên, quân Tống chưa đánh đã tan rã. Thần mộng rõ ràng, mảy lông sợi tóc chẳng sai.
Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Như Nguyệt Khước Địch Đại Vương, năm thứ tư gia phong Thiện Hựu Dũng Cảm.
(Trích “VIỆT ĐIỆN U LINH TẬP”)